Showing posts with label TÂM ĐẠO. Show all posts
Showing posts with label TÂM ĐẠO. Show all posts

Monday, 28 April 2014

Tâm và Tánh

Tâm là gì ?

Tâm, đơn thuần là trái tim trong cơ thể con người. Vị trí của nó nằm ngay giữa lòng ngực, là trung tâm tiếp nhận máu để nuôi dưỡng toàn bộ hoạt động của cơ thể con người chúng ta. Có lẽ chính vì vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng đó, Tâm còn được định nghĩa là trung tâm hay tâm điểm, là điểm giữa của 1 vật, 1 việc, 1 khuôn khổ, 1 môi trường hay 1 phạm vi nào đó. Đặc biệt khi nói đến Tâm của người, thì ai cũng hiểu được đó là tấm lòng, là tình cảm trong quan hệ, là cảm giác tiếp nhận của người đối với người hay đối với điều gì đó, nó xuất phát từ tim cùng với quan điểm và lối suy nghĩ bên trong của mỗi người.

Xa hơn nữa, khi diễn tả những biểu cảm xuất phát từ Tâm, liên quan đến Tâm, thì Tâm thường mang theo cái ý đi theo nó để miêu tả rõ nghĩa hơn ý nghĩa liên quan đến nó, thí dụ như, Tâm sự, Tâm tình, Tâm thần, Tâm thức, Tâm sở, Tâm tánh....vv..

Tánh là gì ?

Bản thể của Tâm vốn tự nhiên và giản đơn, thường tiếp nhận để cho đi chứ không tích lũy riêng cho mình, đó là tính bác ái vị tha có sẵn trong mỗi trái tim con người. Bởi lẽ, chức năng tự nhiên của quả tim trong cơ thể là trung tâm tiếp nhận máu để truyền về thần kinh trung ương, điều hoà lưu thông mọi chức năng các cơ quan trong cơ thể góp phần quan trọng trong việc duy trì bảo vệ sức khỏe cho con người. Vì thế, tim hay Tâm đã liên kết chặt chẽ với bộ não trí tuệ để tạo ra thái độ hoạt động cho con người.Từ đó, nó giúp tạo nên thói quen hành động thường xuyên, hình thành nên tính cách riêng cho mỗi cá nhân con người.  Tính cách riêng đó gọi là Tánh.

Tâm Tánh

Như đã nói, Tâm luôn luôn kết hợp với trí tuệ để xây dựng hình thành nên Tánh, khi con người suy nghĩ bên trong Tâm như thế nào thì sẽ điều đó sẽ thể hiện ra bên ngoài Tánh như thế ấy, gọi chung là Tâm Tánh hay còn gọi là Tánh Tình là tính nết riêng biệt đặc thù của mỗi cá nhân con người.

Không Tâm Tánh của ai giống ai và cũng không ai có được sự vẹn toàn trong Tâm Tánh để trở thành mẫu mực cho ai. Quan trọng hơn hết, con người có Tâm Tánh tốt thì sẽ có tấm lòng bác ái khoan dung, biểu hiện ra bên ngoài sự tôn kính nhân nghĩa đối với mọi người trong mọi hoàn cảnh. Luyện tập và duy trì được Tâm tánh tốt như vậy thì chắc chắn sẽ được mọi người yêu mến và cuộc sống sẽ gặp được nhiều may mắn an lành. Sự miêu tả về Tâm Tánh được thể hiện trong các quan niệm như sau:

Tâm Tánh trong Phật Giáo

Ba cõi Tâm, Phật, và chúng sanh chỉ là một Tâm không sai khác.
Tâm là A-lại-da-thức nơi biểu hiện của trí tuệ, linh thông của con người, còn là nơi lưu giữ những điều hiểu biết học được trong kiếp này và ghi nhận các điều thiện ác để làm chủng tử cho kiếp lai sinh. Theo Phật thì trong mỗi chúng sanh đều có Chơn Tâm và Phật Tánh nên phương hướng tu hành của Phật Giáo dạy “Minh Tâm Kiến Tánh”. Người tu hành làm thế nào để cho chân tâm được sáng tỏ và thấy được Phật tánh trong tự thể của mình thì đắc đạo(Readings)

Tâm Tánh trong Nho giáo

Tâm của người với Tâm của Trời đều cùng một thể. Làm người phải biết giữ cái Tâm và nuôi cái Tánh, vì “ Theo Nho giáo, Tâm Tánh là thần minh, linh giác của con người nên còn gọi là linh tâm giác tánh. Nho giáo xem Tâm Tánh ban đầu vốn lành, nhưng sỡ dĩ con người có Tâm Tánh độc ác, là do càng ngày càng tập nhiễm những điều xấu, mà xa dần cái tánh bổn thiện. (Readings) Do thế, đường lối của Nho giáo là “Tồn Tâm Dưỡng Tánh” để biết rõ lẽ Trời mà đối nhân xử thế theo chính mệnh, sẽ giữ được phẩm giá tôn quí.

Tâm Tánh trong Lão giáo

Lão giáo thì gọi Tâm Tánh là Thiên lương, Huyền tẩn hay Huyền quan khiếu ...” “Lão giáo cũng cho rằng Tâm Tánh có sẵn trong mỗi người, ban đầu nó hồn nhiên, vô tư vô dục, lương thiện như tâm hồn của đứa trẻ con mới sinh ra, nên đức Lão Tử so sánh cái Thiên Lương tức Tâm nguyên thủy của con người như là tâm của đứa con đỏ “Xích tử chi tâm”. Nhưng sở dĩ có sự biến dạng thành hung ác, là do tập nhiễm vật dục làm thay đổi từ tốt trở nên xấu. Vì vậy mà Trần Đoàn Lão tổ mới nói rằng con người trở thành Phật cũng do bởi tâm, mà sống như thú vật cũng do tâm sai khiến. Nên đường hướng tu hành của Lão giáo lấy sự hư tỉnh để tu luyện đó là: Tu Tâm Luyện Tánh”.  Tu Tâm là sửa lòng cho trong sạch, cốt làm cho Tâm con người luôn thanh tịnh, làm chủ được bản thân mình, không để thất tình lục dục sai khiến. Luyện Tánh là tập cái tánh không, tức không để ảnh hưởng bởi thất tình: mừng vui, hờn giận, yêu ghét ... (Readings)   

Tâm Tánh trong Tâm lý học

Từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành, Tâm Tánh con người được hình thành tự nhiên qua gien di truyền của cha mẹ, sau đó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển tùy thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau. Tâm Tánh thay đổi tự nhiên trong mỗi giai đoạn phát triển tâm sinh lý cùng lúc bị ảnh hưởng tác động từ môi trường sống, từ sự giáo dục của cha mẹ đến hoàn cảnh gia đình và xã hội. Do thế, sự thay đổi nổi trội của Tâm Tánh khác xa cách biểu hiện vốn có thường do môi trường sống tác động mạnh chi phối thúc đẩy nó lớn dần.

Do vậy, ngành Tâm lý học ngày nay quan tâm chú trọng đến việc khai thác và phát triển những phương cách chỉnh sửa Tâm Tánh sao cho phù hợp với mong muốn tự nhiên của con người là tìm thấy hạnh phúc và an lành trong cuộc sống. Có rất nhiều nghiên cứu thực tiễn qua nhiều thế hệ với những chứng minh được ứng dụng rộng rãi bằng những phương pháp chữa trị các chứng bệnh liên quan đến Tâm Tánh con người. Một trong những phương pháp đó là “Chú Trọng Bản Thân”, giúp người tự hiểu, tự rèn luyện, tự đánh giá và tự thay đổi bản thân, vì không ai có thể hiểu và thay đổi được mình tốt hơn bằng chính bản thân mình. 
Nhìn chung trong tất cả các quan niệm nêu trên, cơ bản vẫn là giống nhau về tính chất tự nhiên với lòng bác ái vị tha có sẵn trong tim, tức Tâm bên trong là nơi chất chứa tình cảm liên kết với trí tuệ não, được biểu hiện ra bên ngoài thành tính cách riêng là Tâm Tánh. Tâm Tánh phát triển và thay đổi tuỳ theo tâm sinh lý, bị ảnh hưởng tác động từ môi trường và hoàn cảnh sống của từng người. Do đó, để có được Tâm Tánh tốt, thì cần phải học tập mở mang trí tụê, tự rèn luyện hay tu luyện sao cho có thể tự làm chủ bản thân không bị bất cứ điều sai trái nào chi phối để có được cuộc sống hạnh phúc an lành.....

Chúc mọi người có được Tâm Tánh vị tha bác ái và cuộc sống yên bình.

 Tâm Duyên

Readings / Đọc:  

Tuesday, 4 March 2014

Đạo là gì ?

Định nghĩa về Đạo

Đạo, trong chữ hán có nghĩa đen là con đường hay đường đi, nhưng nghĩa bóng mang khái niệm trừu tượng về phương hướng hay đường lối dẫn dắt con người đi đến mục tiêu hay lý tưởng nào đó. Có rất nhiều lý tưởng, phương hướng với nguyên tắc khác nhau về Đạo, vì mỗi phương thuộc mỗi phạm trù khác nhau, như Triết học, Phật giáo, Nho giáo hay Khổng giáo. Tuy vậy, tất cả những con đường Đạo khác nhau đó có cùng chung một nền tảng cơ bản là dựa trên cái Thiện, cái Đẹp, cái Tự Nhiên trong sáng lành mạnh và Chân Chính để phát triển và mưu cầu Hạnh Phúc An Lành cho con người.
Thông thường khi nói đến Đạo, người ta thường cho rằng đó là vấn đề thuộc Tôn giáo nhiều hơn. Thật sự, tôn giáo hay 1 đạo giáo nào đó là 1 trong nhiều con đường Đạo, chủ yếu về tâm linh hay siêu hình, dựa vào lòng tin hay đức tin của người theo đạo giáo để khuyên người làm lành tránh dữ bằng con đường tu hành theo đạo giáo đó. Những đường Đạo khác cũng thế, đều dẫn dạy con người cách sống, cách hành xử, cách yêu thương cho và nhận trên công bình bác ái. Những Đạo tiêu biểu được biết đến nhiều nhất, đó là:

Đạo Học của Lão Tử
 
Lão Tử coi đạo là nguồn gốc của vũ trụ, là bản nguyên của Trời Đất và vạn vật. Đạo có nguồn gốc tự nhiên nhưng không biết nơi xuất phát cũng không có nơi kết thúc. Đạo ở khắp vũ trụ, tàng ẩn trong muôn vật thiên nhiên mà không có bất cứ sự phân biệt nào. Đạo vô hình nhưng công dụng vô biên đối với vạn vật bằng sự tương đối và bình đẳng ngang nhau, vì thế có thể hình dung ra đó là đạo của Trời, Đất và Con Người.
Lão Tử cũng diễn tả Đạo với nhiều con đường khác nhau bằg những hình dung rõ nét hơn nhờ vào cái Lý đi theo sau nó, như Đạo Người, Đạo Trời, Đạo Trị Nước hay Đạo Đức Kinh của ông. Theo ông, Đạo có công sinh ra vạn vật, còn Đức thì bồi dưỡng, nuôi lớn vạn vật và có công che chở vạn vật, nhưng công sức đó lại tùy thuộc vào Đạo. Nói cách khác, khi vạn vật được tự nhiên sinh ra, muốn được phát triển và trưởng thành tốt thì phải cần quá trình bồi dưỡng nuôi nấng tốt, muốn được thế cần phải tuân theo chính quy luật của nó, tức quy luật của tự nhiên, là quy luật của Đạo. Khi con người làm được những điều thích ứng với đạo Trời, phù hợp với quy luật thì coi như đắc đạo. Vì thế, Lão Tử chủ trương sống tự nhiên với bản chất con người để gần gũi với Đạo hơn.

Đạo của Khổng Tử
 
Khổng Tử luôn nêu cao Nhơn Đạo, là đạo xử thế trong 3 mối quan hệ chính làm ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của xã hội. Trong thời phong kiến quan hệ giữa Vua với tôi thần, trong gia đình Cha Mẹ với Con Cái và nơi học đường Thầy với Trò. 
Theo ông, làm người phải biết giữ đạo là phải tuân theo 5 cái thường tình trong thiên hạ là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Ông cho rằng, “Người quân tử là người biết cầu Đạo, chớ không cầu thực” tức phải lo việc học Đạo, tu chỉnh trên con đường chính đạo chứ không trọng miếng cơm manh áo đói no hàng ngày. Sự nghèo đói chỉ là tạm bợ phát sinh do vô đạo mà ra và chính vì vô đạo nên khốn đốn cuộc đời. Trong quan điểm của ông, Đạo không cùng thì không thể hợp tác vì quan niệm đạo đức khác nhau do ảnh hưởng từ giai cấp khác nhau trong xã hội. Cùng chí cùng đạo thì không lo cô độc vì sẽ được thiên hạ tìm đến. Tuy vậy, dù mọi người có giai cấp khác biệt đến đâu cũng vẫn có cùng chung nguyện vọng được sống hạnh phúc yên vui, đó chính là Nhơn Đạo.
Từ đó, Đạo Khổng đã được Mạnh Tử phát huy và truyền bá cho đến nay với những nguyên tắc giữ Đạo hay Đạo lý trong mọi khía cạnh cuộc sống từ việc xây dựng gia đình đến việc trị quốc nuôi dân.

Đạo trong Kinh Dịch
 
Kinh Dịch nói “Nhất Âm Nhất Dương Chi Vị Đạo“ tức Đạo là do 1 Âm 1 Dương tác động ảnh hưởng lẫn nhau để sinh ra, chuyển biến hoá và phát triển vạn vật trong vũ trụ. Đó là sự biến chuyển không ngừng trong mối liên quan giữa Trời, Đất và Con Người trong mô hình trật tự của hai chiều âm và dương. Người nào thấu hiểu được Dịch, hiểu được sự vật và còn thông thấu được cả đạo của sự vật, tất nhiên sẽ hành xử theo đạo, đó là Đạo của người Quân Tử. 
Không gì mà không có Đạo, Đạo hiện hữu khắp nơi. Mọi vạn vật đều sinh tồn trong quy luật biến hóa của Đạo và nhờ Đạo, vì Đạo liên tục biến chuyển để đổi mới cho vạn vật giúp thế gian ngày càng tươi đẹp và phát triển thêm.

Đạo trong Phật giáo

Bình Thường Tâm Thị Đạo người nhập được vào bản tâm thanh tịnh, giữ được tâm bình thường của chính mình, là người đó thấy được đạo và nhập được vào đạo.  Khi đó, có thể đọc hiểu được những lời dạy của chư Phật, thấu hiểu được mọi Phật pháp, không cần phải thuộc làu các kinh điển hay sách vở, mà vẫn tự thấy được con đường giác ngộ và giải thoát, tiến tới xây dựng đời sống hiện hữu được an lạc và tìm thấy hạnh phúc cho bản thân.

Đạo trong Cao Đài giáo 
 
Muốn nhìn thấy Đạo thì phải tu luyện và phải đủ công đức thì mới đắc đạo. “Đạo không phải nơi lời nói, mà ở kết quả của việc mình làm. Chẳng phải nơi câu kệ câu kinh mà buộc hành vi người giữ đạo. Cái khó khăn của Đạo chẳng phải nơi giảng dạy mà cốt ở sự thực hành. Cái hay của Đạo chẳng phải tại nơi yếu lý, mà ở sự kết quả của sự giáo truyền” (Phương tu Đại Đạo).

Đạo trong đời sống

Đạo là đời, đó là định nghĩa của nhân gian từ những kinh nghiệm từng trãi trong cuộc sống gian nan. Trên diện phương tâm lý, bất cứ con người nào sống trên cuộc đời này cũng đều mong muốn có được nơi an cư lạc nghiệp, đất nước hoà bình, đời sống ấm no, hạnh phúc, tinh thần vui vẻ và bình an. Thế nhưng, cuộc đời luôn đầy biến động, vì thế giới con người rất đa dạng phong phú cùng với vạn vật thiên nhiên ảnh hưởng tác động cho nhau. Chính từ nơi đó, con người trở nên mong muốn lợi lộc nhiều hơn và đã vượt ra khỏi giới hạn tự nhiên của bản thân. Cuộc đời lại có những quy luật tự nhiên của nó với sự bù trừ cân bằng khiến cho con người phải trả giá cho hành động của mình. Quy luật và nguyên tắc tự nhiên đó chính là Đạo của đời. 
Đạo đời vô hình nhưng thích ứng và hiệu quả tức thì. Người hiểu được Đạo đời tự khắc biết rút kinh nghiệm khi thất bại, biết tự học hỏi khi yếu kém, biết nhận lãnh trách nhiệm khi lầm lỗi và tự biết điều chỉnh bản thân để cân bằng những mong muốn vừa đủ hầu vui hưởng được cuộc sống hạnh phúc bình yên cho mình.

Đúc kết:
Đạo là con đường đi vô hình nhưng chân chính, là phương hướng dẫn con người đi tới cái thiện mỹ, hạnh phúc, vui vẻ và bình an cho đời sống tinh thần lẫn vật chất. Trên con đường đi đó, Đạo hiện diện mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống, mang tính chất tự nhiên với nguyên tắc công bằng bù trừ, cho và nhận, không phân biệt ai cũng không giới hạn hoàn cảnh nào và hiệu ứng rõ ràng trên hai chiều ngược xuôi. Nguyên tắc của Đạo không hề biến đổi. Đạo không đến vì những lời cầu xin để mang lợi ích cho riêng ai. Đạo chỉ giúp cho mỗi con người tự nhận thức, tự kiểm soát, tự phát triển bằng chính cái đạo của mình, tức phải làm tròn đạo làm người, giữ tròn trách nhiệm của bản thân trong mọi mối quan hệ với gia đình, xã hội và đất nước. Do đó, người hiểu Đạo sẽ tự biết làm theo Đạo, hành xử đúng đắn theo nguyên tắc của Đạo và sẽ nhanh chóng tìm thấy hạnh phúc an lạc cho bản thân.

Tâm Duyên
Thư mục:
Ref. 8- 9

Friday, 1 November 2013

Trung Dung là gì ?

 ĐẠO TRUNG DUNG TRONG GIA ĐÌNH


Trung Dung là thuật cân bằng giữa 2 sự tương khắc trong vũ trụ tự nhiên, đơn thuần được hiểu như là sự trung hòa giữa âm và dương, giữa nhu và cương, nóng và lạnh...v.v..

Thuật Trung Dung do Khổng Cấp tức Tử Tư là cháu nội của Khổng Tử viết ra và sau đó được học trò của ông là Mạnh Tử soạn chép lại và truyền bá khắp nơi trong nhiều thế hệ sau bên Trung Quốc.

Mục đích của Tử Tư trong đạo Trung Dung là muốn giáo hóa nhân sinh phải biết cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng sống theo nguyên tắc của đạo làm người với Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, luôn giữ cho tròn thì mọi việc sẽ thành tựu như mong muốn.
PHÉP TRỊ GIA TRUNG DUNG

“Tề gia trị quốc, bình thiên hạ”

Gia đình là nền tảng cho cuộc sống, là nguồn gốc xuất phát của 1 con người, là nguồn nuôi dưỡng bảo bọc khi người còn bé, là nơi cư trú an toàn nhất cho một đời người. Do đó, để đạt thành công trong bất cứ khía cạnh nào của xã hội hay công danh sự nghiệp tương lai thì nền tảng gia đình phải được giữ gìn cho vững chắc. Muốn thế, mối quan hệ và cách cư xử của mọi người trong cùng gia đình phải dựa theo nguyên tắc của người đứng đầu gia đình đặt ra. Nguyên tắc đó phải mang tính chất hài hòa và công minh, được thế ắt sẽ được mọi thành viên trong nhà công nhận và tuân thủ noi theo.

Trong một quốc gia cũng thế, vì là 1 đại gia đình đông dân số trên một diện tích rộng lớn nên những nguyên tắc, luật lệ của người đứng đầu cần phải nghiêm và công minh lấy lợi ích của dân làm đầu trong mọi cân nhắc tính toán. Muốn được dân chúng ủng hộ tuân theo những luật lệ nguyên tắc thì những luật lệ đó phải vì dân và do dân chấp thuận đồng tình.

1.       Tính nết có định trước mới tránh được lổi lầm

Tính tình con người không thể ép buộc hợp nhau. Trong gia đình, những sự xung đột, bất hoà thường xuyên diễn ra giữa cha mẹ và con cái hay giữa anh chị em là điều không thể tránh được. Thông thường nhất, là sự trách mắng con cái của cha mẹ do không thông hiểu nhau từ hai thế hệ và những sự ganh tị trong các anh chị em. Tệ hơn nữa, có sự bất công áp đặt từ phía cha mẹ đối với con cái khi còn nhỏ khiến sanh những uất hận trong lòng cho chúng, ngay cả việc anh em tranh giành của cải thừa kế gia sản cũng là việc ngày nay xãy ra ở nhiều nơi.

Nếu nhìn từ khía cạnh tâm sinh học, mọi người trong gia đình có cùng dòng máu huyết thống nên tính tình cơ bản tương tự lẫn nhau. Nếu tính tình của họ mang tính dương+ nhiều thì dẫn tới xung đột cao và ngược lại mang tính âm- cao thì xung đột thấp. Thí dụ, nếu cha mẹ của họ là người nóng nãy thì tất cả các đứa con sẽ cùng nhau biểu lộ nóng nãy với nhau không ai muốn nghe ai dẫn đến bất hòa.

Do thế, nên hiểu rõ tính nết của bản thân mình và mọi người trong gia đình để có thể hoà hợp với nhau. Tuy không phải là điều dễ làm nhưng nếu nhận ra được bản tính của mình, suy nghĩ, động cơ nào thường dễ gây bất hòa, thì sẽ biết tự uốn nắn với cách cư xử tốt được định trước và sẽ ngăn chận được lỗi lầm ít hơn.

2.       Tôn kính người trên và ôn tồn khuyên răn trong nhà

Sự luôn kính cẩn của con đối với cha mẹ là nguyên tắc bất biến không có gì để tranh cãi. Từ thời xưa, con đối với cha mẹ như quan thần đối với vua chúa hay như tôi tớ đối với chủ không thể ngang hàng. Điều này đã khiến một số người làm cha mẹ đã không công bằng với con cái luôn áp đặt những điều họ mong muốn mà bỏ qua những gì con cái họ ước mong và gây biết bao hệ luỵ trong gia đình. Ngày nay, quan điểm trong việc kính cẩn hiếu thảo đối với cha mẹ không những là sự tôn kính trong lời nói và cách cư xử chân thành mà còn nên thể hiện sự thông cảm, thương yêu và  hiểu biết từ hai phía. Muốn có được sự tôn kính hài hoà của con, cha mẹ phải biết thể hiện trước sự tôn trọng ước muốn của con, đó chính là phương cách giáo dục thực tế và hữu hiệu nhất.

Trong cách đối xử với anh chị em trong nhà, dù vị trí của mình là anh chị hay em út cũng thế, đều nên giữ sự hài hoà bằng những lý lẽ mang tính logic, giải thích cặn kẽ, tôn trọng ý kiến người khác và tìm hiểu thực tế trong mọi vấn đề. Lấy sự nhường nhịn và kiến thức hiểu biết làm nguyên tắc để suy nghĩ và cư xử.

3.       Biết NHẪN

Nguyên tắc giữ êm ấm trong gia đình là chữ NHẪN để hòa hợp lâu dài. Nhẫn, có nghĩa là Nhịn chứ không có nghĩa là Nhục. Nhịn nhường trong gia đình để đạt được sự vui vẻ cho người trong gia đình là đem lại hạnh phúc cho mọi người. Tuy nhiên, việc nhường nhịn sẽ càng trở nên phức tạp và nguy hiểm hơn nếu không hiểu rõ đạo của Nhẫn. 

Phần đông, ai cũng có thể nhịn nhường một vài lần nhưng ít ai có thể duy trì tính cách đó cả đời. Bởi lẽ, con người luôn có giới hạn riêng của mình, những ai nhịn nhẫn như là một cách dồn nén trong tâm tư đến lúc không thể được nữa thì sẽ bùng phát như quả bom, như nước lũ tràn bờ thì việc nguy hại càng không thể ngăn chận được.

Vậy nên biết, đạo của Nhẫn là xem việc bị xúc phạm, tranh giành, thị phi hay dối gạt hại người là những điều nên tránh kịp thời, phải biết cách giãi quyết ôn hòa, là điều không nên nghĩ tới, là điều không cân đo xem xét nặng nhẹ cho mình và nếu được thế tự dưng sẽ không giữ phiền muộn  trong lòng. Quan trọng nhất là cách thể hiện bên ngoài bằng nét mặt và lời nói như không. Đó là người biết Nhẫn.

4.       Sống chung không nên giấu riêng tiền của

Khi mọi người sống chung nhau trong cùng mái gia đình, ai cũng lo cất giấu riêng tiền tài lo cho bản thân phòng khi hữu sự, thì đó là việc làm tự đẩy mình ra xa khỏi những người yêu thương. Thông thường nhất là sự cất giấu tiền riêng giữa 2 vợ chồng, có thể nói đó là kết quả của một tình yêu không dựa trên lòng tin và không hiểu nhau.

Ngày nay, có người còn lợi dụng lòng tin yêu của nhau để vay vốn kiếm lời riêng, có người cất giấu tiền bạc bằng cách gởi gấm cho người khác và nhiều trường hợp khác tương tự như thế với những tính toán cá nhân, cuối cùng dẫn tới kết quả mất trắng, vừa mất tiền bạc vừa mất lòng tin lẫn tinh thần của mọi người trong gia đình.

Tiền bạc chỉ là vật ngoài thân, mất tiền con người có thể làm ra tiền khác nhưng lòng tin con người đã mất thì khó tìm lại được. Vì thế, bàn tính giúp đỡ nhau trong những hoàn cảnh khốn khó về tiền bạc với người trong gia đình là điều nên làm.

5.       Cha Mẹ yêu thương công minh với con cái

Làm bậc cha mẹ không nên yêu ghét mù quáng con cái vì những suy nghĩ và hành động của con. Phần nhiều cha mẹ thường trách mắng con cái khi chúng khôn lớn vì không làm được những điều họ mong muốn. Đau khổ hơn, các bậc Cha Mẹ chê trách con mình bất hiếu, hư hỏng, đổ lỗi cho mọi thứ trên đời mà không hề nhìn thấy lại quãng thời gian con cái của mình đã lớn lên dưới sự giáo dục của cha mẹ như thế nào.

Từ thuở nhỏ, trẻ con thường hay được sự nuông chìu của cha mẹ và ngược lại các cha mẹ thường bỏ qua những hành động nhỏ, vô ý thức của con, họ không uốn nắn hay giãi thích cho chúng hiểu, vì cho rằng chúng quá bé để hiểu rõ hành động của mình. Cho đến khi khôn lớn, những hành động lỗi lầm của chúng trở thành thói quen gây ảnh hưởng đến cha mẹ, những lời trách mắng hay giãi thích lúc này đều trở nên vô dụng.

Thế nên, “Dạy con từ thuở còn thơ...” là dạy con từ chính những lỗi lầm nhỏ nhất để tránh được những lỗi lầm lớn sau này. Giáo dục con không phải bằng sách vở giáo khoa hay những lời giáo điều quy cũ là đủ, mà phải dạy bằng chính suy nghĩ và hành động thực tế, cụ thể trước mặt chúng. Những gì cha mẹ khuyên bảo con cái không nên làm chính là những nguyên tắc đặt ra cho chính cha mẹ của chúng thi hành. Trẻ con rất nhạy cảm, học rất nhanh và học hỏi mọi thứ từ những gì xung quanh chúng, từ cha mẹ, từ những lời nói, hành động và việc làm của tất cả mọi người chúng tiếp xúc hàng ngày và làm theo rất giỏi. Do đó, nếu học được những điều tốt đẹp từ nhỏ chúng sẽ trở thành người tốt có ích cho xã hội.

Tóm lại, để tránh đỗ vỡ mất mát trong một gia đình thì nguyên tắc yêu thương và hiểu biết công bằng là nền tảng cho mọi người cùng nhau học hỏi và duy trì. Trên có công minh thì dưới mới tôn kính và thi hành. Cha mẹ yêu thương con cái công bình, biết giáo dục con ngay từ thuở nhỏ, biết tạo tấm gương tốt cho con noi theo thì không gì làm con cái hư hỏng được. Vợ chồng hay anh chị em trong nhà biết nhường nhịn cho nhau, hiểu nhau vì hạnh phúc chung trong gia đình thì nền tảng gia đình luôn được ổn định vững chắc. Đó là vốn quý nhất trên đời.

Cầu mong mọi gia đình có hạnh phúc.
Tâm Duyên
Ref. 7

Thursday, 28 June 2012

NHƠN ĐẠO

ĐẠO LÀM NGƯỜI

Là đạo trong tâm, đạo của những quy tắc, đạo của đức Trời dạy con người cư xử và hành động sao cho hợp tình hợp lý, vẹn tròn nhân nghĩa và thuận ứng theo lẽ Trời Đất.
Thiên Địa Nhân

Từ ngàn xưa các bậc thánh, hiền nhân đã nghĩ đến Nhơn đạo trên quy tắc Tam Tài – Thiên Địa Nhân, trên có Trời, dưới có Đất và chính giữa là con người. Họ đã chỉ ra được một quy tắc cho con người tuân theo giúp dẫn đến việc phát triển nhân cách  đạo đức trong mọi khuôn phép của vạn vật tự nhiên thích hợp với đất trời..

“Nhất nhơn chi tâm, tức thiên địa chi tâm
Nhất vật chi lý, tức vạn vật chi lý “

Sống giữa đất trời, Tâm của mỗi con người sinh ra đã mang cái tâm đức của Trời Đất, được hình thành và sống trong thế giới thiên nhiên của vũ trụ bao la, được cho trí óc để suy nghĩ dẫn đến lời nói và hành động thuận ứng lý Trời. Trong đó, cái lý của mỗi vật hay trong mỗi người cũng tương quan với lý của Đất hay vạn vật thiên nhiên, trong 1 vòng có sinh có tử và tất cả đều mang hai trạng thái đối nghịch lẫn nhau bổ sung cho nhau để cùng nhau biến hóa và phát triển.

Con người cùng với vạn vật sinh, thành, suy, hủy trong hệ thống luân chuyển đó, biến hóa và phát triển tiếp nối không ngừng. Mỗi con người là một tiểu vũ trụ trong một đại vũ trụ bao la, có liên quan ảnh hưởng với nhau rất mật thiết. Nói cách khác, mỗi một con người có một quy trình sinh, lão, bệnh, tử (life pattern) rất tương tự với qui trình sinh ra, hình thành, phát triển và hủy diệt của thiên nhiên (nature pattern). Con người sống trong thế giới dương luôn biến chuyển thay đổi không ngừng có đúng có sai và khi chết đi trở về thế giới âm bất biến yên tĩnh, xương cốt tan rã trở thành cát bụi trở về thiên nhiên.

Trong hệ thống phát triển đó, nếu con người hay bất cứ điều gì trong thiên nhiên biến chuyển thái quá vượt ra khỏi giới hạn của quy luật thì sẽ bị tiêu diệt nhanh chóng hơn. Nói cách khác, khi con người suy nghĩ và hành động theo mục đích có lợi cho bản thân mà bất chấp đạo làm người, không hiểu đạo Trời Đất, thì tất nhiên sẽ phải trả giá tương xứng cho những gì đã gây ra. Khi những sai trái xuất hiện quá nhanh, quá lớn vượt khỏi phạm vi quân bình thì cũng là lúc bị hủy diệt bằng chính cái sai trái của nó. Tương tự, trong đạo Phật người ta hay nói đến luật Nhân Quả “gieo gì gặt nấy” hoặc trong đời sống người tây phương cũng thường hay nói đến luật bù trừ “You’ll receive what you give” or “You’ll be what you eat”.....

Nhơn đạo ngày nay
 
Con người ngày nay đã và đang học theo đời sống văn minh Tây phương chạy theo vật chất xa hoa, nhiều người dường như đã trở nên xa lạ với những gì thuộc đạo đức con người, về lễ nghĩa tôn sư trọng đạo, về sự kính trọng hiếu thảo cha mẹ và tín nghĩa trong quan hệ với nhau.

“Tiên học Lễ, hậu học Văn” 

Một quy tắc bất dịch truyền từ ngàn đời cho mọi người ngay từ khi bước chân đầu tiên vào nhà trường, ngày nay cũng bị vài người lợi dụng mĩa mai không thích hợp chỉ vì mục đích thương hiệu hóa cá nhân. Ngay cả thuyết đạo đức của Khổng Tử cũng có người cười chê không còn phù hợp với cuộc sống ngày nay nữa. 

Thuyết đạo đức của Khổng tử

Thuyết Khổng Tử xuất phát từ Trung Quốc, được mọi người biết nhiều nhất như là một nền móng của Nhơn đaọ, đã đúc kết ra nguyên tắc đạo đức cho con người, đã tạo lập trật tự kỹ cương cho xã hội, tạo dựng phép tắc từ trên xuống dưới, từ gia đình ra xã hội, giúp kẻ dưới kính trọng người trên, giúp mọi người học tập noi gương bậc hiền nhân và đã giúp biết bao thế hệ phát triển trong việc giữ tròn đạo làm người phù hợp với đạo lý Trời Đất. 

Thuyết đạo đức của Khổng Tử dựa trên Ngũ thường, là 5 cái thường tình của con người phải có trong đời sống. Trong các mối quan hệ giữa người với người, từ gia đình, công việc đến xã hội, phải luôn biết giữ đạo trọn vẹn không để rối loạn và càng không nên khinh xuất:

Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín

Khổng Tử đã nêu lên Ngũ luân, 5 mối quan hệ chủ yếu trong mọi sinh hoạt từ gia đình ra đến chính trị và an sinh xã hội, Quân-Thần (vua tôi), Phụ-Tử (cha con), Phu-Thê (vợ chồng), Huynh-Đệ (anh em) và Bạn- Bè.

Nhân:  là cái Thiện vốn dĩ tồn tại trong mỗi con người. Đạo đức dựa trên lòng nhân, lòng vị tha hay tấm lòng con người trong mối quan hệ với người khác. Sống mà đối đãi với nhau bằng lòng nhân thì có lẽ sẽ không có luật pháp, vì mọi chuyện luôn được “Dĩ hoà vi quý”.  Khổng Tử đơn giản rằng, để sống có nhân và sống hài hòa với mọi người thì đừng nên làm những gì mà ta không muốn người khác làm cho mình.

Lễlà những qui tắc, là việc nên làm dựa trên nghi thức tập quán, là sự tôn trọng hòa nhã người người với nhau. Trong xã hội con người còn phải tuân theo qui luật xã hội và luật pháp, đó là những qui tắc nghiêm minh dành cho hành động sai trái. Bên cạnh đó còn phải biết cúng tế đối với Trời Đất Thánh Thần, những gì thuộc qui phạm đạo đức con người là thuận ứng theo lòng Trời ý Đất, là biết phân biệt việc nào nên làm, việc nào không nên làm.

Nghĩa:  thường đi đôi với Lễ, là các yêu cầu phải có trong việc đối nhân xử thế hàng ngày, những hành xử đúng đắn trong 5 mối quan hệ đã nêu. Người cư xử theo lễ nghĩa thường dựa trên lý trí  thích hợp với đạo đức con người. Thí dụ, khi làm lễ thành hôn, phu thê phải lạy cha mẹ 2 bên để cám ơn sự sinh thành dưỡng dục và giao bái nhau để nói lên sự kính trọng lẫn nhau trong hôn nhân. Thí dụ khác, khi cha mẹ chết người con phải để tang 3 năm, hầu tưởg nhớ đến công cha nghĩa mẹ nuôi dưỡng trong 3 năm đầu ở tuổi sơ sinh chưa biết gì.....

Trí: có được bộ óc khôn ngoan sáng suốt để nhận biết và hiểu được những điều đúng sai, biết suy nghĩ tính toán để hành động sao cho hợp với đạo lý làm người. Để được như vậy, con người phải luôn trao dồi trí tuệ, tích lũy kiến thức, học hỏi thêm những điều hay lẽ phải, tránh được những sai trái cám dỗ, giúp mình giúp người mưu cầu hạnh phúc.

Tín: là lòng thành tín, giữ đúng lời hứa, là người đáng tin cậy. Tín là thước đo phản ánh nhân cách con người trong các mối quan hệ qua lại với nhau. Khi suy nghĩ và hành động theo lòng thành tín, giữ đúng lời hứa hay làm theo lời nói thì mọi việc thông suốt, thuận theo ý Trời thì sẽ được Trời giúp sức, giúp người thì sẽ được người giúp, “Hựu giả trợ dã”....quả không sai.

Trong cuộc sống dù ở hoàn cảnh nào, thế giới phát triển văn minh đến đâu con người cũng đều cần thiết thể hiện nhân cách và đạo đức trong tất cả các mối quan hệ qua lại. Những gì thái quá hay đi ngược lại đạo lý thì sẽ bị hủy hoại. Cũng như trong một gia đình hay ngoài xã hội không có tôn ti trật tự, pháp luật không nghiêm, con người coi thường Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí,Tín, thì trước sau gì cũng loạn động đi đến diệt vong. Vì thế, sống với Nhơn đạo là giữ trọn đạo làm người, xem Ngũ thường làm nền tảng cho mọi thế hệ thì chắc chắn sẽ được tồn tại và phát triển lâu bền...

Đọc thêm - Other blogs

Tư Vấn - Counselling Form